Avicii
Avicii | |
---|---|
Avicii vào năm 2014 | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Tim Bergling |
Tên gọi khác |
|
Sinh | Stockholm, Thụy Điển | 8 tháng 9 năm 1989
Nguyên quán | Östermalm, Stockholm, Thụy Điển |
Mất | 20 tháng 4 năm 2018 Muscat, Oman | (28 tuổi)
Thể loại | |
Nghề nghiệp | |
Nhạc cụ | |
Năm hoạt động | 2005 – 2018 |
Hãng đĩa | |
Hợp tác với | |
Website | avicii |
Tim Bergling (phát âm tiếng Thụy Điển: [tɪm ²bærjlɪŋ]; 8 tháng 9 năm 1989 – 20 tháng 4 năm 2018),[2] được biết đến với nghệ danh Avicii (/əˈviːtʃi/, a-VEE-chee; tiếng Thụy Điển: [aˈvɪtɕɪ]; ký hiệu là ΛVICII hoặc ◢◤), là nam nhạc sĩ, DJ, nhà sản xuất nhạc người Thuỵ Điển. Anh được biết đến là tác giả sáng tác các bài hát nổi tiếng như "Levels", "I Could Be the One" (cùng Nicky Romero), "Wake Me Up", "You Make Me", "X You", "Hey Brother", "Addicted to You", "The Days", "The Nights", và "Waiting for Love".
Avicii phát hành album đầu tiên của mình mang tên "True" vào năm 2013. True nhận được sự đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc và đạt vị trí top 10 tại hơn 16 quốc gia, top 5 tại Úc, Thụy Điển, Đan Mạch và Mỹ. Anh từng xếp thứ 6 trên bảng xếp hạng 100 DJs bình chọn bởi tạp chí DJ Magazine vào năm 2011 và xếp thứ 3 trong 2 năm liên tiếp 2012 và 2013[3][4]. Anh được đề cử giải Grammy 2 lần cho ca khúc "Sunshine" (cùng David Guetta) vào năm 2012, và đĩa đơn "Levels" năm 2013. Năm 2015, Avicii phát hành album thứ hai của mình mang tên Stories. Ngày 10 tháng 3 năm 2017, anh tung ra EP mới mang tên AVĪCI (01).
Bergling từng phải hủy chuyến lưu diễn cá nhân và vào năm 2016 anh chính thức giải nghệ lưu diễn trên sân khấu vì vấn đề sức khỏe, chủ yếu do căng thẳng và suy nhược tinh thần kém kéo dài nhiều năm. Ngày 20 tháng 4 năm 2018, Bergling tự sát khi đi nghỉ tại Muscat, Oman. Hơn một năm sau, bản album nhạc cuối cùng của anh mang tên "Tim" ra mắt vào cuối năm 2019.[5]
Khởi nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Tim Bergling sinh ngày 8 tháng 9 năm 1989 tại Stockholm, Thụy Điển. Với tài năng thiên bẩm, anh bắt đầu sáng tác nhạc từ năm lên 8 tuổi. Ba anh là Klas Bergling và mẹ của anh, bà Anki Liden là một diễn viên nổi tiếng Thụy Điển từng được đề cử Oscar cho bộ phim "My Life as a Dog". Buổi diễn đầu tiên của anh là chơi nhạc với tư cách DJ trong tiệc dạ hội của trường gồm 40 học sinh.
Tháng 7 năm 2007, Avicii ký hợp đồng với nhãn đĩa Dejfitts Plays. Sau đó, anh phát hành hit đầu tiên của mình "Seek Bromance" vào năm 2010, và được nằm trong top 20 tại một số nước bao gồm Bỉ, Pháp, Hà Lan, Vương quốc Anh, và Thụy Điển. Avicii cũng là người sản xuất âm nhạc cho bài hát "Rapture" của Nadia Ali trong album Queen of Clubs Trilogy: Onyx Edition của cô. Tháng 10 năm 2010, Avicii ký hợp tác với the European A&R team cùng EMI Music Publishing.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc cái tên "AVICII"
[sửa | sửa mã nguồn]Theo Tim, tên của anh ấy bắt nguồn từ tầng thấp nhất của địa ngục theo Phật giáo tầng thứ 8 (avīci) và anh cũng chọn tên này vì đó là tên thật mà anh dùng để tạo tài khoản MySpace của anh.
2011–2012: "Levels" và sự đột phá quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2011, Avicii phát hành "Levels", bài hát đặc trưng cho âm nhạc của anh. "Levels" được sản xuất và viết bởi Tim Bergling, những hợp âm được truyền cảm hứng bởi "Something's Got a Hold on Me" của Etta James năm 1962. Những hợp âm quen thuộc đó cũng được sử dụng lại bởi Pretty Lights trong "Finally Moving". Levels được xếp hạng trong top 10 tại Áo, Bỉ, Croatia, Bonsnia, Đan Mạch, Phần Lan, Hi Lạp, Đức, Ý, Hà Lan, Vương quốc Anh, và đứng đầu các bảng xếp hạng tại Hungary, Na Uy và Thụy Điển.
Năm 2012, Avicii được để cử một giải Grammy cho hạng mục "Best Dance Recording" cho track "Sunshine" hợp tác cùng David Guetta. Một thời gian sau đó, phần âm nhạc của track "Fade into Darkness" của Avicii bị Leona Lewis sử dụng cho single "Collide". của cô. Việc lấy mẫu không được công nhận đã dẫn đến tranh cãi và Avicii cố gắng ngăn chặn sự phát hành của single này. Tuy nhiên, mọi việc về sau đã được giải quyết ổn thỏa tại tòa án khi phía đại diện phát hành "Collide" giới thiệu trong sản phẩm là Leona Lewwis và Avicii làm việc cùng nhau cho single Collide.
Ngày 23 tháng 3 năm 2012, single chưa được phát hành "Last Dance" của Avicii được giới thiệu tại show của Pete Tong's tại BBC Radio 1. Bài hát sau đó được chính thức phát hành muộn vào ngày 27 tháng 8 năm 2012. Vào lễ hội EDM Ultra Music Festival 2012 tại Miami, Avicii giới thiệu 2 tracks mới của anh bao gồm "Girl Gone Wild" (Avicii's UMF Remix) với Madonna và "Superlove" với Lenny Kravitz. Avicii's UMF Remix "Girl Gone Wild" được phát hành rộng rãi vào ngày 20 tháng 4 năm 2012, và "Superlove" được phát hành vào ngày 29 tháng 5 năm 2012.
Anh tiếp tục phát hành bài hát mới với tựa đề " Two Miliion" với ý nghĩa cảm ơn 2 triệu người follow trên Facebook. Bài hát được anh đăng tải miễn phí trên SoundCloud của mình. Ngày 27 tháng 4 năm 2012, Avicii tung ra track mới mang tên "Silhouettes". Bài hát được thể hiện bởi chất giọng đặc trưng của Salem Al Fakir và nằm vị trí thứ 5 trên BXH tại Vương Quốc Anh, vị trí thứ 4 trên BXH Billboard Hot Dance Club Songs
Avicii tổ chức buổi diễn vào ngày 4 tháng 8 năm 2012 tại lễ hội Lollapalooza festival ở Chicago's Grant Park. Ngày 12 tháng 8 năm 2012, anh phát hành track "Dancing in My Head" (Avicii's 'Been Cursed' Mix) trên Beatport. Bài hát có sự góp giọng của Eric Turner. Một bản khác là "Dancing in My Head" (Tom Hangs Mix) được phát hành ngày 14 tháng 8 năm 2012 qua iTunes, và bản remix EP được phát hành muộn vào ngày 30 tháng 10 năm 2012, được remix bởi Charlie Bernardo and Michael Woods. Ngày 26 tháng 9 năm 2012, Avicii tạo nên lịch sử khi trở thành DJ đầu tiên có tên trên Radio City Music Hall tại thành phố New York. Buổi biểu diễn tiếp theo của anh ngày 26 và 27 tháng 9 được bán sạch vé chỉ trong một thời gian ngắn. Avicii cũng nhận được sự hỗ trợ của Matt Goldman và Cazzette trong 2 show đó. Tại show Radio City Music Hall, anh chơi một track mới của mình mang tựa đề "Stay with you". Tuy nhiên, "Stay with you" sau đó không được phát hành với lý do Avicii cảm thấy đây là một bài hát khá cũ của anh.
Ngày 29 tháng 9 năm 2012, Avicii chơi nhiều bài hát mới tại Lights All Night, trung tâm Dallas Convention, một số từ album đầu tiên của anh, True. Những track chưa được phát hành bao gồm "I'll Be Gone" và "Let It Go". Phần âm nhạc trong "Let It Go" được mix với bản acapella "Addicted to You" (Avicii by Avicii).
Ngày 19 tháng 12 năm 2012, bài hát "Levels" của anh được sử dụng làm nhạc nền cho cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012.
Ngày 29 tháng 12 năm 2012, Avicii phát hành chính thức bài hát "I Could Be the One" – được hợp tác với Nicky Romero. Sau đó, cuối cùng track được phát hành thông qua hãng thu âm LE7ELS của Avicii. Ngày 9 tháng 1 năm 2013, Avicii đưa ra dự án X You, với sự hợp tác của Ericsson. Dự án được tạo ra để sáng tạo nên một "cộng đồng đóng góp" cho những bài hit. Dự án cho phép người hâm mộ có thể gửi những bass, hiệu ứng, giai điệu, nhịp điệu và giọng hát để Avicii có thể tạo ra một tập tin âm thanh trên internet. Những bài hát được tạo ra với trình tự Kian Sang (melody), Naxsy (bassline), Martin Kupilas (beat), ВАНЯ ХАКСИ (break), Jonathan Madray, Mateusz Kolata, và Christian Westphalen (effects). Avicii làm việc trong studio, điều hành sản xuất, sáng tạo và cuối cùng bài hát được chính thức ra mắt vào ngày 26 tháng 2 năm 2013 với tựa đề X You. Ngày 30 tháng 1 năm 2013, Avicii phát hành "Three Million" với tính năng Negin để đánh dấu cột mốc 3 triệu người hâm mộ của anh trên Facebook.
Avicii nhận một đề cử Grammy hạng mục Best Dance Recording cho "Levels" tại Giải thưởng Grammy năm 2013. Anh được để cử cùng Calvin Harris và Ne-Yo, Skrillex, Swedish House Mafia và John Martin, Al Walser. Chương trình trao giải diễn ra vào ngày 10 tháng 2 năm 2013. Từ cuối tháng tháng 2 đến đầu tháng 3, tour diễn của Avicii tại Úc là một trong những tour thành công và thu hút nhất trong lịch sử Future Music Festival, cùng với The Prodigy và The Stone Roses. Cuối tháng 2 năm 2013, Avicii hoàn thành tour đầu tiên của anh tại Nam Mỹ, và các show khác tại Venezuela, Argentina, Colombia, Brasil và Chile.
2013: TRUE
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 3 năm 2013, Avicii công bố và ra mắt nhiều ca khúc mới của mình cho album mới True, album được phát hành muộn vào tháng 9, và được giới thiệu bất ngờ trong lễ hội Ultra Music Festival tại Miami. Các bài hát đều được thử nghiệm một cách tự nhiên nhất. Ví dụ như, Avicii đã mời ca sĩ cùng ban nhạc đồng quê để chơi bài "Wake Me Up". Rất nhiều những bài hát mới khác, đã được đánh giá vô cùng khả quan thông qua show diễn đó.
Ngày 11 tháng 4 năm 2013, Avicii phát hành bản mix cho các bài hát trong album mới của anh thông qua SoundCloud, bao gồm những bài hát từ True và một số khác là những single đơn như "Black and Blue" và "Enough is Enough (Don't Give Up On Us)".
Ngày 14 tháng 6 năm 2013, thế giới được thưởng thức bản single mới nhất của anh, "Wake Me Up", bài hát đã được giới thiệu trước đó bởi DJ Pete Tong trên BBC Radio 1, và được hát bởi Aloe Blacc. Bài hát cuối cùng được phát hành trên iTunes và radio vào ngày 25 tháng 6 năm 2013. Đây cũng chính là đĩa đơn đầu tiên trong album True của Avicii, được phát hành sau đó vào ngày 16 tháng 9 năm 2013. "Wake Me Up" thành công vang dội khi giữ vị trí số 1 toàn cầu trên BXH danh tiếng Spotify Global và Avicii trở thành người thứ 2 được theo dõi trực tiếp nhiều nhất trên toàn thế giới trong hầu hết các nghệ sĩ. "Wake me up" sau đó thiết lập kỷ lục là 14 tuần tại vị trí thứ một trong những hit trên list Billboards Dance/Electronic Songs. The Official Charts Company công bố vào tháng ngày 21 tháng 7, "Wake Me Up" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất năm 2013 tại Vương quốc Anh, vượt qua "Blurred Lines" của Robin Thicke' đã bán được 267,000 bản trong tuần đầu tiên được phát hành tại Anh. "Wake Me Up" sau đó trở thành một hit lớn, đứng đầu tất cả các bảng xếp hạng trên 20 quốc gia bao gồm Úc, Đức, Ireland, Italy, Scandinavia,[which?] Hà Lan, và New Zealand.
Ngày 19 tháng 10 năm 2013, tạp chí DJ danh giá DJ Mag công bố top 100 DJs của thế giới, Avicii được xếp hạng vị trí thứ 3. DJ Hardwell đứng vị trí thứ 1 thế giới, thay thế Armin van Buuren. Ngày 28 tháng 10 năm 2013, Avicii phát hành single "Hey Brother", được hát bởi Dan Tyminski.
Ngày 10 tháng 11 năm 2013, Avicii thắng giải thưởng đầu tiên "Best Electronic" tại giải âm nhạc MTV EMA's.
Ngày 24 tháng 11 năm 2013, Avicii thắng giải nghệ sĩ Electronic được yêu thích nhất tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ (AMAs).
Tháng 12 năm 2013, Avicii phát hành single thứ tư của mình, "Addicted To You", single đứng vị trí số 1 tại Úc, và được hát bởi Audra Mae, cũng là người đã hát ca khúc "Shame on Me" và "Long Road to Hell", cả hai đều là tracks trong album True. Avicii cũng phát hành single Lay Me Down với giọng hát chính là Adam Lambert, phần guitar từ Nile Rodgers, người đã chơi rất nhiều bài hát bao gồm cả album của Daft Punk - Random Access Memories, Adam Lambert's espassing.[28] Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Avicii ra mắt ca khúc mới của mình "Dreaming of Me", được hát bởi Audra Mae, thông qua hãng thu âm LE7ELS của anh. Tuy nhiên, vẫn chưa có thông tin về việc phát hành ca khúc này trong tương lai.
Tháng 1 năm 2014, đài phát thanh hit âm nhạc NRJ của Pháp phát hành một web radio mới có tên gọi "NRJ AVICII", được chơi các bài hát chỉ của Avicii.
Ngày 8 tháng 3 năm 2014, tài khoản Instagram của anh đăng tải thông tin xác nhận một sự hợp tác với Madonna. Ngày 21 tháng 3 năm 2014, Avicii phát hành bản remix cho album True với tựa đề True: Avicii By Avicii bao gồm các bản mix của chính anh, kể cả bản "Heart Upon My Sleeve". Việc chính thức chơi các bản trong album được đề cập bắt đầu tại Ultra Music Festival 2014, nhưng tiếc là Avicii tuyên bố anh phải nhập viện vào ngày 28 tháng 3 do căn bệnh ung thư túi mật, và không thể chơi các set của mình tại lễ hội được. Vào ngày 28 tháng 3 năm 2014, FIFA và Sony Music thông báo rằng Avicii sẽ cộng tác với Carlos Santana, Wyclef Jean và Alexandre Pires cho bài hát chủ đề của FIFA World Cup với tiêu đề "Dar um Jeito (We Will Find a Way)". Bài hát chủ đề này được biểu diễn tại lễ bế mạc FIFA World Cup 2014.[32]
Ngày 7 tháng 4 năm 2014, Avicii phát hành single "Lay Me Down". Anh cũng cộng tác cùng Chris Martin của nhóm Coldplay, đồng sáng tác và đồng sản xuất track "A Sky Full of Stars" cho album phòng thu thứ sáu của nhóm – Ghost Stories, được phát hành ngày 19 tháng 5 năm 2014. Anh cũng chơi và thu âm phần piano trong track đó. "A Sky Full of Stars" được phát hành ngày 3 tháng 5 là single thứ hai của Ghost Stories.[33] "Lovers on the Sun", một track khác Avicii đồng sản xuất cùng David Guetta, được phát hành ngày 30 tháng 6 năm 2014.[34] Avicii cũng làm việc cùng Wyclef Jean cho single "Divine Sorrow" trong album Clefication.[35]
2014–2015: STORIES
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 7 năm 2014, Avicii trả lời phỏng vấn Rolling Stone rằng anh đã viết đến 70 ca khúc cho album tiếp theo của mình Stories, với sự hợp tác cùng Jon Bon Jovi, Serj Tankian của System of a Down, Chris Martin, Wyclef Jean và Matisyahu.[36] Miêu tả album, Avicii nói rằng: "It's going to be a lot more song – oriented"[37]
"Lose Myself", một sự hợp tác giữa Avicii và ca sĩ người Trung Quốc Wang Leehom, được phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2014.[39]
Ngày 8 tháng 9 năm 2014, vào sinh nhật lần thứ 25 của mình, Avicii quyết định hủy bỏ tất cả các buổi biểu diễn còn lại trong năm vì lý do liên quan đến sức khỏe[40] Trong thời gian đó, anh thông qua Denim & Supply đã tiết lộ rằng sẽ phát hành single mới "The Days" vào cuối năm 2014; một video đặc sắc cũng đã được giới thiệu trước track.[41] "The Days" là sự hợp tác giữa Avicii và Robbie Williams, được phát hành ngày 3 tháng 10 năm 2014 thông qua PRMD. Ngày 16 tháng 9 năm 2014, EA Sports đề cập rằng Avicii đã trở lại với track mới mang tên "The Nights" bài hát duy nhất cho FIFA 15.[42]
2016: Giải nghệ và tin đồn về album thứ ba
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 15 tháng 1 năm 2016, Avicii phát hành bản remix cho bài hát 'Beautiful Heartbeat' của Morten. Trong thời gian tiếp theo, hãng nước giải khát nổi tiếng Coca Cola đã mời anh tham gia sản xuất bài hát chủ đề cho chiến dịch cùng tên "Taste The Feeling", với giọng của Conrad Sewell. Bài hát chính thức được phát hành ngày 19 tháng 1.
Ngày 25 tháng 1, Avicii lại hợp tác với Coldplay, đồng sản xuất single mới của nhóm mang tên "Hymn for the Weekend", và được phát hành như một single thứ hai của nhóm trong album A Head Full of Dreams.[59]
Trong năm 2016, thông qua tạp chí Inc magazine và Forbes, Avicii là một trong những DJ giàu nhất thế giới với tổng giá trị tài sản lên tới 7,7 triệu euro riêng năm 2014.
Tháng 2, Avicii có đề cập khả năng phát hành album thứ 3 trong năm 2016, và có một số tin đồn rằng album lần này có tên là "Equal", nhưng sau này được ra mắt với cái tên "AVĪCI" cùng một loạt những ca khúc mới được biểu diễn tại Ultra Music Festival tại Miami vào năm 2016.
Ngày 29 tháng 3, anh viết tâm thư thông qua mạng xã hội facebook, anh cũng đăng lên website của mình với thông tin quyết định giải nghệ và năm 2016 sẽ là năm cuối cùng anh đi tour. Điều này đã làm cho người hâm mộ và rất nhiều các nghệ sĩ khác bất ngờ. Anh thông tin mình sẽ không từ bỏ âm nhạc, sẽ dùng âm nhạc để kết nối với các fan hâm mộ, tuy nhiên sẽ dừng tổ chức biểu diễn và tour sau năm 2016. Thông tin Avicii giải nghệ đã gây shock cho làng EDM của thế giới. Các tờ báo nổi tiếng The New York Times, Huffington post, tạp chí EDM, BBC,... đồng loạt đưa tin.
Vấn đề sức khoẻ của Avicii trở nên đáng lo ngại trong nhiều năm nay và bản thân nam DJ đã phải tạm hoãn tất cả các show diễn trong một thời gian dài để về nghỉ ngơi (và trị bệnh) tại quê nhà Stockholm – Thụy Điển. Nguyên nhân lớn nhất đó là Avicii sử dụng nhiều đồ uống có cồn trong suốt khoảng thời gian vừa qua.
Dưới đây là nội dung tâm thư đăng ngày 29 tháng 3:
Chào tất cả mọi người,
Tôi muốn nói lời cảm ơn tới tất cả, các bạn đã giúp tôi thực hiện được hoài bão của cuộc đời mình. Sự biết ơn này là vĩnh cửu tôi dành cho đồng nghiệp và các fan của tôi. Các bạn đã giúp tôi có một chuyến hành trình thực sự quá ý nghĩa và thú vị, cùng với đó là những thành tựu không thể quên. Cảm ơn những người cộng sự tuyệt vời đã tạo nên một xu hướng âm nhạc mới, một cơn bão càn quét khắp thế giới, và khi được ở tâm bão thì đúng là tôi đã thực sự rất may mắn. Cảm ơn sự tin tưởng các bạn đã dành cho những sản phẩm của tôi.
Điều quan trọng đầu tiên tôi muốn nói đó là cảm ơn người anh, người bạn đồng hành của tôi: Ash. Người đã ở bên tôi trong những ngày đầu khó khăn nhất và tưởng chừng như muốn gục ngã. Em sẽ nhớ mãi những ngày tháng chúng ta sát cánh bên nhau. Em có thể viết nhiều hơn, nhưng chặng đường của chúng ta đã đi đến hồi kết.
Cảm ơn mọi người ở At Night, nếu không có các bạn tôi sẽ không thể đứng trên sân khấu. Xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Carl Vernersson, Filip Holm, Marcus Lindgren, Victor Lee, Panos Ayassotelis và Diana Baron.
Cảm ơn team của Johnny Tennander, Per Sundin, Max Hole, Neil Jacobson và Joakim Johansson. Các bạn khiến tôi tin rằng âm nhạc của chúng ta là cần thiết. Cảm ơn các bạn.
Cảm ơn Robb Harker, Malik Adunni, David Brady, Andrew Mckeough, Rob Woo và Felix Alfonzo đã hỗ trợ những tour lưu diễn của tôi một cách tuyệt vời nhất. Tôi cảm thấy sự nghiệp của tôi sẽ vô cùng tăm tối nếu không có sự trợ giúp từ các bạn.
Cảm ơn Ciara Davey, Michael “Curley” Jobson, team MJM, Harry Bird và Charlie Alves – các bạn đã giúp tôi có một tour diễn tuyệt vời và có những khoảng thời gian ý nghĩa. Tôi hy vọng chúng ta sẽ tìm ra được một con đường chung trong tương lai để tiếp tục đồng hành.
Cảm ơn tất cả các nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất đã giúp tôi phát triển âm nhạc cũng như cá tính của mình. Danh sách sẽ rất dài, nhưng tôi thực sự đã học được rất nhiều từ những người mà tôi từng làm việc chung.
Một lời cảm ơn gửi tới tất cả những người bạn trong ngành công nghiệp giải trí, cảm ơn Jesse Waits ở XS, bạn là một người bạn lớn. Một lời cảm ơn không sắp xếp theo thứ tự tôi dành cho Jonathan Schwartz, Austin Leeds, Pete Moutso, Dave Grutman, Noah Tepperberg, Jason Strauss, Sean Christie, Carlos Correal, Rob Fernandez, Eddie Dean, Adam Russakoff, Mike Satsky, Trecia Laird, Lisa Pillette, Marcella Barrett, Zoe Stainsby, Joe Belliotti, Yann và Romain Pissenem, John và Paul ở Ibiza, Fricko, Sean, Marcus, Awat, Lucas, Ludde, Calle, Johannes, Filip, Levan, Otto, Oliver, anh em của tôi, David và Anton, chị tôi Linda, cha mẹ tôi Anki và Klas.
Con đường sự nghiệp của tôi có vẻ như trải đầy hoa hồng, nhưng các bạn biết đó cũng sẽ có rất nhiều chông gai. Tôi thấy mình đã trưởng thành hơn, hiểu bản thân nhiều hơn và tôi biết mình cần làm gì cho cuộc sống sắp tới. Tôi biết tôi có một vài khả năng đặc biệt trong các lĩnh vực khác tuy nhiên tôi lại không có thời gian để khám phá chúng.
Tôi đã có hai tuần để đi cùng bạn bè mình khắp nước Mỹ. Nhìn thấy những điều mới mẻ khiến tôi tin là mình thực sự cần thay đổi.
Tôi biết ơn mọi cơ hội đến với mình tuy nhiên cuộc sống không chỉ là vật chất. Có thể bạn thấy tôi may mắn có thể đi du lịch khắp thế giới nhưng thực sự không phải ai cũng hiểu được đằng sau của một người nghệ sĩ như thế nào.
Tôi sẽ không bao giờ rời bỏ âm nhạc, tôi vẫn sẽ tiếp tục giao lưu và giữ liên lạc với fan của mình, tuy nhiên tôi quyết định 2016 sẽ là tour diễn cuối cùng của tôi. Chính vì thế hãy thật bùng nổ nhé.
Tôi sẽ không thể nói là không bao giờ, nhưng chắc chắn tôi không thể quay lại ngay.
Trân trọng
Tim Bergling/Avicii
T.B. Tôi có một số điện thoại mới để nhắn tin với các bạn. +46769436383, hãy chia sẻ mọi thứ với nhưng có thể tôi sẽ không thể phản hồi ngay lập tức được.”
2017: EP "AVĪCI" và sự trở lại
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 25 tháng 6 năm 2017, Rita Ora ra mắt một đoạn nhỏ bài "Lonely Together" (được Avicii đệm nhạc) ở sự kiện cá nhân của cô tại Annabel, Luân Đôn.
Ngày 19 tháng 7 năm 2017, Avicii có đăng tải một đoạn video với hình ảnh một góc ở Machu Picchu, Peru kèm theo một đoạn của bài "Friend of Mine" trên Instagram và công bố sẽ cho ra mắt thêm những tác phẩm âm nhạc mới đánh dấu sự quay trở lại của Avicii đang được cộng đồng chú ý với sự có mặt của những dự án được anh ấp ủ từ lâu và đã được chơi tại những lễ hội lớn như Ultra Music Festival tại Miami vào năm 2016 như Without You (với Sandro Cavazza) hay Friend of Mine (với Vargas và Lagola).
Ngày 11 tháng 8 năm 2017, thông qua hãng đĩa Virgin Records, anh ra mắt EP thứ 6 mang tên "Avīci"
EP gồm các bài hát sau:
- "Friend Of Mine" – được hát với Vargas và Lagola (bài hát này được cải tiến từ bài "Unbreakable" mà Avicii giới thiệu tại Ultra Music Festival 2016)
- "Lonely Together" – được hát với Ora Rita
- "Without You" – được hát với Sandro Cavazza
- "You Be Love" – được hát với Billy Raffoul
- "What Would I Change It To" – được hát với AlunaGeorge
- "So Much Better" – Sandro Cavazza (Avicii Remixes)
Các bài hát trên đã đạt được thứ hạng cao ở bảng xếp hạng nhạc điện tử ở khá nhiều nước như Nhật Bản, Úc, Phần Lan, Thụy Điển, New Zealand, Bỉ,...
Trong một cuộc phỏng vấn trên kênh BBC Radio 1, anh khẳng định rằng EP này chỉ mới là một trong ba phần trong Album sắp tới của anh. Avicii sẽ tiếp tục ra mắt phần tiếp theo trong tương lai.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2017, Avicii đã công bố một bộ phim tài liệu về chính mình nhan đề: "Avicii: True Stories" trên Netflix. Bộ phim tài liệu đạo diễn bởi Levan Tsikurishvili, kể về hành trình từ những ngày đầu của Tim cho tới khi thành ngôi sao nổi tiếng toàn cầu. Những tài liệu trong phim được khai thác từ những người đồng nghiệp của anh như: David Guetta, Chris Martin (thành viên trong ban nhạc Coldplay), Nile Rogers, Tiesto, Wyclef Jean, Laidback Luke,...[6]
Hoạt động từ thiện
[sửa | sửa mã nguồn]Kể từ khi đạt được thành công thương mại lan rộng, Bergling bắt đầu làm việc với người quản lý và nhà sản xuất điều hành Ash Pournouri để bắt đầu House for Hunger[7] vào năm 2011, một tổ chức từ thiện dành riêng cho việc đẩy lùi nạn đói toàn cầu. Cặp đôi này muốn giới thiệu tinh thần hiến tặng được cộng đồng âm nhạc house nuôi dưỡng. Bergling giải thích, "Bạn phải đáp lại bằng một điều gì đó. Tôi may mắn được ở vị trí mà tôi có thể thực sự thực hiện điều đó. Tôi cảm thấy may mắn mỗi ngày khi tôi thức dậy và có thể làm những gì tôi yêu thích và kiếm sống." Ngoài việc quyên góp 1 triệu USD cho Feeding America, một tổ chức từ thiện do John van Hengel sáng lập, House for Hunger đã tài trợ cho những nỗ lực của The Feed Foundation, khởi xướng bởi Laura Bush,[8] cho phép phân phối hơn 2 triệu bữa ăn ở khắp châu Phi.[9] Anh cũng ủng hộ các chiến dịch chống buôn người và bạo lực băng đảng khi đạo diễn video cho các bài hát "For a Better Day" và "Pure Grinding" của mình.[10]
Sức khoẻ và qua đời
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 1 năm 2012, Bergling phải nhập viện trong 11 ngày ở thành phố New York và được chẩn đoán bị viêm tụy cấp do sử dụng quá nhiều rượu. Năm 2014, Bergling phải trải qua một cuộc phẫu thuật cắt bỏ cả ruột thừa và túi mật. Năm 2016, sức khỏe của Bergling có chiều hướng chuyển biến xấu và anh sau đó đã quyết định dừng việc tham gia lưu diễn trực tiếp.[11][12]
Tim Bergling qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm 2018 tại một địa điểm gần Muscat, Oman, hưởng dương 28 tuổi; không có nguyên nhân qua đời nào được đưa ra ngay lập tức.[13][14][15][16] Ngày 21 tháng 4 năm 2018, cảnh sát Oman tuyên bố không có "nghi ngờ hình sự" hoặc bằng chứng nào về việc giết người trong cái chết của Bergling.[17][18]
Ngày 1 tháng 5, Hãng tin TMZ cho biết Bergling qua đời vì tự tử.[19] Anh tự sát bằng mảnh vỡ chai rượu thủy tinh dẫn đến anh bị mất máu đến chết.[20] Thông cáo của gia đình Avicii cho biết, anh đã để lại một lá thư tuyệt mệnh.[21][22]
“Tim yêu quý của chúng tôi là một người thích khám phá, một linh hồn nghệ thuật nhạy cảm luôn tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi liên quan đến sự tồn tại của con người. Một người cầu toàn đã đi nhiều nơi và làm việc chăm chỉ tới mức stress nặng.
Khi ngừng lưu diễn, anh ấy muốn tìm sự cân bằng trong cuộc sống để được hạnh phúc và có thể làm những gì anh ấy yêu thích nhất – âm nhạc. Anh ấy thực sự đấu tranh với những suy nghĩ về những điều ý nghĩa, cuộc sống, hạnh phúc. Anh ấy không thể tiếp tục được nữa. Anh ấy muốn tìm sự thanh thản.
Tim không được sinh ra để trở thành một cỗ máy kinh doanh, anh ấy là một chàng trai nhạy cảm, yêu quý người hâm mộ nhưng muốn tránh xa ánh đèn sân khấu. Tim, con sẽ mãi mãi được yêu thương và nhớ đến. Con người và âm nhạc của con sẽ giữ cho con sống mãi. Chúng ta yêu con. Mãi là gia đình của con”
- Gia đình Avicii[18]
Gia đình anh mở lễ tang tư nhân vào ngày 8 tháng 6 năm 2018 tại nghĩa trang Skogskyrkogården, Stockholm. Hài cốt của anh được chôn cất tại nhà thờ Hedvig Eleonora, cùng ngày lễ tang của anh.[23][24][25]
Tri ân
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 21 tháng 4 năm 2018, một số bài hát của Avicii được đánh chuông theo giai điệu bài hát của anh tại nhà thờ Dom Tower, Utrecht, Hà Lan, trình diễn bởi Malgosia Fiebig.[26]
Ngày 22 tháng 4 năm 2018, ban nhạc Mỹ OneRepublic trình diễn bài hát hit của Avicii "Wake Me Up" tại buổi hòa nhạc tour Mumbai.[27]
Ngày 20 tháng 5 năm 2018, bộ đôi DJ The Chainsmokers và ca sĩ Halsey vinh danh tưởng nhớ Avicii tại lễ trao giải thưởng âm nhạc Billboard năm 2018:
“Cái chết của Avicii là một mất mát to lớn cho làng nhạc thế giới và cho chúng tôi. Anh ấy là một nghệ sĩ đã truyền cảm hứng cho rất nhiều người theo nhiều cách khác nhau. Anh ấy có ý nghĩa rất lớn với chúng tôi và mọi người trong cộng đồng EDM” - Andrew Taggart[28]
Bộ đôi DJ đình đám Vicetone trình diễn bài hát hit tưởng nhớ Avicii "Levels" tại đại nhạc hội EDM NEX Music Festival, được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Việt Nam vào ngày 5 tháng 5 năm 2018[29]. Họ cũng đã ra mắt bản nhạc được lấy cảm hứng từ bài Avicii và là một trong những bài hát đầu tiên họ sáng tác, tên là "South Beach".[30]
Ngày 21 tháng 5 năm 2018, nghệ sĩ DJ Tiësto chơi một số ca khúc tri ân Avicii, cùng với sự trình diễn của ca sĩ Aloe Blacc tại buổi hòa nhạc EDC Las Vegas năm 2018.[31]
Ngày 27 tháng 5 năm 2018, Rita Ora, nữ ca sĩ hợp tác sản xuất nhạc chung gần đây với Avicii, dành một phút mặc niệm tri ân anh trên sân khấu tại buổi hòa nhạc BBC Radio 1's Big Weekend và đại nhạc hội Capital's Summertime Ball [32][33] [34]
Một số nghệ sĩ DJ tại Đại hội hòa nhạc Tomorrowland năm 2018 đã chơi một số bài hát tưởng nhớ Avicii. Hai bài hát được chơi tại đại hội nhạc nhiều nhất là bài "Levels" và bài "Wake Me Up".[35][36] Michael Thivaios (Like Mike) thuộc bộ đôi đình đám DJ Dimitri Vegas & Like Mike miêu tả đại hội nhạc Tomorrowland là nơi "quê hương" của anh, Thivaios sau đó tiếp tục gọi Bergling là "một trong những bạn bè tốt nhất và là nguồn cảm hứng nhất đối với sự nghiệp của anh".[37][38]
Tháng 10 năm 2018, bảo tàng tượng sáp Madame Tussards tại New York khai trương tượng sáp nghệ sĩ Avicii.[39] Cùng tháng đó, tựa game nhạc "Avicii INVECTOR" phát triển bởi hãng game Hello There Games, phát hành cho hệ máy tính PC, Playstation 4, Xbox One và Nintendo Switch.[40]
Một năm sau khi anh mất, các nhạc sĩ và nghệ sĩ thân thiết với anh như Nicky Romero, Nile Rodgers, ban tổ chức buổi hòa nhạc Tomorrowland,... tri ân anh trên các trang mạng xã hội.[41]
Một vật trang trí trên sân khấu (Bìa cuốn sách màu xanh) với nhan đề "In loving memory of Tim Bergling" tri ân tưởng nhớ nghệ sĩ Avicii tại đại nhạc hội Tomorrowland vào năm 2019 và năm 2022[42]
Ngày 30 tháng 4 năm 2019, Quân đội Hoàng Gia Thụy Điển trình diễn một số bài hát của Avicii, tri ân anh trước cung điện Stockholm.[43]
Ngày 5 tháng 12 năm 2019, Buổi hòa nhạc Tưởng nhớ Avicii (Avicii Tribute Concert for Mental Health Awareness) được tổ chức tại sân vận động Friends Arena, Stockholm nhằm gây quỹ cho "Tim Bergling Foundation"[44]. Buổi hòa nhạc góp mặt nhiều ca sĩ hợp tác với Avicii bao gồm Adam Lambert, Rita Ora, Alex Ebert, Aloe Blacc, Amanda Wilson và một số nghệ sĩ sáng tác/DJ hàng đầu như David Guetta, Nicky Romero, Laidback Luke, Dimitri Vegas & Like Mike và Kygo.
Tháng 5 năm 2021, Nhà thi đấu bán cầu Ericsson Globe tại Stockholm, Thụy Điển được đổi tên thành Avicii Arena. Cha mẹ của Avicii cho biết đây là nơi anh từng lưu diễn vào năm 2012 và sẽ trở thành trung tâm nhận thức vấn đề tâm lý cho giới trẻ, phòng chống tự tử và các hoạt động từ thiện được quản lý bởi tổ chức Tim Bergling Foundation.[45]
Ngày 19 tháng 5 năm 2021, bài hát "For A Better Day" được biểu diễn tại Avicii Arena bởi Ella Tiritiello và Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia Stockholm.[46]
Ngày 8 tháng 9 năm 2021, nhóm Google Doodle tạo hình tượng trưng tri ân ngày sinh nhật thứ 32 và tôn vinh nghệ sĩ Avicii trên trang chủ Google.[47]
Di sản và sự ảnh hưởng trong lĩnh vực nhạc điện tử
[sửa | sửa mã nguồn]Vấn đề trầm cảm và nhận thức tâm lý
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 26 tháng 3 năm 2019, gia đình của Avicii thành lập quỹ từ thiện "Tim Bergling Foundation" được đặt theo tên thật của anh và quỹ tập trung vào các vấn đề tâm lý, trầm cảm trong giới trẻ và giải quyết các vấn đề về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, động vật quý hiếm và nạn đói toàn cầu trên thế giới hiện nay.[48][49][50][51]
Sự ảnh hưởng và bùng nổ nhạc điện tử
[sửa | sửa mã nguồn]Avicii được công chúng, các nhạc sĩ và nghệ sĩ đã từng hợp tác sản xuất nhạc với anh trên thế giới công nhận anh là một trong những nghệ sĩ tiên phong phổ biến, bùng nổ thị trường nhạc sàn điện tử EDM cho thế hệ trẻ và dẫn đường cho các nghệ sĩ DJ sản xuất nổi tiếng thành công lớn nhất hiện nay như Kygo, Zedd, Sebastian Ingrosso, Felix Jaehn, Tobu, v.v... Một số nghệ sĩ như Alan Walker, DubVision, miêu tả anh là "thần tượng" trong cộng đồng nhạc EDM[52]. Nghệ sĩ DJ Martin Garrix từng hợp tác với Avicii sản xuất nhạc đơn "Waiting For Love", đề cập anh là nguồn cảm hứng nhạc EDM lớn nhất đối với anh.[53]
Vào ngày anh từ trần, tờ báo The Washington Post trích anh là nghệ sĩ tiên phong, đầy tài năng, chất nhạc EDM của anh kết hợp nhiều yếu tố văn hóa và chất liệu nhạc quê nhà như bài "Wake Me Up" và bài "Hey Brother" ra mắt vào năm 2013, đồng thời phần ca từ được đánh giá cao khiến cho các tác phẩm nhạc của anh có chiều sâu đặc biệt.[54]
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tạp chí Billboard xếp hạng tác phẩm nhạc "Levels" của Avicii là một trong những bản nhạc hit ảnh hưởng lớn nhất trong thập kỷ 2010.[55]
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Album
[sửa | sửa mã nguồn]Album tuyển tập
[sửa | sửa mã nguồn]- 2011: Avicii Presents Strictly Miami
EP
[sửa | sửa mã nguồn]- 2009: Muja EP
- 2010: Seek Bromance
- 2014: The Days / Nights EP
- 2015: Pure Grinding / For A Better Day
- 2017: AVICII
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải thưởng Âm nhạc Mỹ
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ là một show giải thưởng âm nhạc tại Mỹ bởi Dick Clark vào năm 1973 và được phát sóng tại đài ABC. Avicii được đề cử 2 lần và thắng giải một lần vào năm 2013.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2013[56] | Avicii | Nghệ sĩ Nhạc Điện tử được yêu thích | Đoạt giải |
2014[57] | Đề cử | ||
2019[58] | Đề cử |
- Giải thưởng Âm nhạc Billboard
Giải thưởng Âm nhạc Billboard là một show giải thưởng âm nhạc của Tạp chí Billboard. Avicii được đề cử 6 lần.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2014[59] | Avicii | Top Nghệ sĩ Nhạc Điện tử | Đề cử |
True | Top album Nhạc Điện tử | Đề cử | |
"Wake Me Up" | Top ca khúc được phát trên đài | Đề cử | |
Top ca khúc Nhạc Điện tử | Đoạt giải | ||
2015[60] | Avicii | Top Nghệ sĩ Nhạc Điện tử | Đề cử |
True | Top album Nhạc Điện tử | Đề cử |
- Giải thưởng Âm nhạc Echo
Giải thưởng Âm nhạc Echo là một lễ hội giải thưởng âm nhạc tổ chức bởi Deutsche Phono – Akademie tại Đức. Avicii thắng 2 giải thưởng.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2014[61] | Avicii | Electronic Dance Music National/International | Đoạt giải |
Hit des Jahres | Đoạt giải |
- Giải thưởng Grammy
Giải thưởng Grammy được trao bởi Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia của Mỹ. Avicii được đề cử 2 lần vào năm 2012 và 2013.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2012[62] | "Sunshine" (David Guetta & Avicii) | Bản thu âm nhạc Dance hay nhất | Đề cử |
2013[63] | "Levels" | Đề cử |
- Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio
Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio là một show giải thưởng của nhà phát hành âm nhạc iHeartRadio. Avicii được đề cử 2 lần và thắng một giải vào năm 2014.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2014[64] | "Wake Me Up" | Lời bài hát xuất sắc nhất | Đề cử |
Nhạc Điện tử của năm | Đoạt giải |
- International Dance Music Awards
Giải thưởng Âm nhạc Dance quốc tế được tổ chức hàng năm như một phần của Hội thảo âm nhạc mùa đông. Avicii được đề cử 4 lần và thắng 1 giải.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2013[65] | Avicii | Best European DJ | Đề cử |
Best Remixer | Đề cử | ||
Levels Podcast | Best Podcast | Đề cử | |
Avicii | Best Artist (Solo) | Đoạt giải | |
2020[66] | TIM | Best Album | Đoạt giải |
- MTV Europe Music Awards
MTV Europe Music Awards được thành lập năm 1994 bởi MTV Networks Europe, Avicii được đề cử 5 lần và thắng 2 giải.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2012 | Avicii | Best Electronic | Đề cử |
Best Swedish Act | Đề cử | ||
2013 | Best Electronic | Đoạt giải | |
Best Swedish Act | Đoạt giải | ||
Best Northern European Act | Đề cử | ||
2015 | Best Electronic | Đề cử | |
Best Swedish Act | Đề cử |
- MTV Video Music Awards
MTV Video Music Awards được giới thiệu hàng năm bởi MTV và vinh danh thành tích trong môi trường video nhạc. Avicii đã nhận được hai đề cử.
Năm | Đề cử | Đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|
2014[81] | "Wake Me Up" | Best Pop Video | Đề cử |
"Hey Brother" | Best Video with a Social Message | Đề cử |
- Teen Choice Awards
Teen Choice Awards là một lễ trao giải hàng năm để tôn vinh những thành tựu lớn nhất trong năm về giải trí và được bình chọn bởi người xem tuổi teen. Avicii đã thắng một giải.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2014[67] | "Wake Me Up" | Choice EDM Song | Đoạt giải |
- Giải thưởng âm nhạc thế giới
Giải thưởng âm nhạc thế giới là một lễ trao giải thường niên vinh danh các nghệ sĩ bán chạy nhất trong ngành công nghiệp thu âm. Avicii nhận được tám đề cử.
Năm | Đề cử | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2014 | "Wake Me Up" | World's Best Song | Đề cử |
World's Best Video | Đề cử | ||
True | World's Best Album | Đề cử | |
Avicii | World's Best Male | Đề cử | |
World's Best Live Act | Đề cử | ||
World's Best Electronic Dance Artist | Đoạt giải | ||
World's Best Entertainer of the Year | Đề cử | ||
World's Best Swedish Act | Đoạt giải |
Nguồn
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Halperin, Shirley (21 tháng 4 năm 2018). “Geffen Records' Neil Jacobson on the Power of Avicii and Plans for Unreleased Music (EXCLUSIVE)”. Variety. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Svenske superstjärnan Avicii är död”.
- ^ “DJMag.com | Top 100 DJs - 2012 - Position 1: Armin Van Buuren”. DJ Mag (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
- ^ “DJMag.com | Top 100 DJs - 2013 - Position 1: Hardwell”. DJ Mag (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
- ^ Online, TTVH (21 tháng 4 năm 2018). “Cuộc đời tài hoa bạc mệnh của DJ Avicii: 'Đó là một hành trình điên rồ'”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ Farber, Jim (13 tháng 12 năm 2018). “'It will kill me' – behind the devastating Avicii documentary”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ http://www.houseforhunger.org/ Lưu trữ 2012-06-14 tại Wayback Machine
- ^ “FEED”. FEED Foundation. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
- ^ Amorosi, A.D. (ngày 14 tháng 2 năm 2013). “Avicci: Leading By Example With Charity”. DJZ.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2013.
- ^ Youngs, Ian (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “Avicii: The superstar DJ behind some of the decade's biggest hits”. BBC News. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2018.
- ^ Nevins, Jake (20 tháng 4 năm 2018). “Avicii: chart-topping EDM star dies aged 28”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
In 2016, Avicii retired from live performing due to health reasons, having suffered from acute pancreatitis owing, in part, to excessive drinking. In 2014, his gallbladder and appendix had been removed.
Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ Stack, Liam (20 tháng 4 năm 2018). “Avicii, Electronic Dance Music Producer and D.J., Is Dead at 28”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
But Avicii retired from international touring in 2016 at age 26 after a series of health scares that struck while he was on the road. He had his gallbladder and appendix removed in 2014. Before that, at 21, he learned he had acute pancreatitis, which he said was related in part to excessive drinking.
Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ Vultaggio, Maria (20 tháng 4 năm 2018). “What is Pancreatitis? Why Avicii Stopped Performing in 2016”. Newsweek. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
Swedish DJ Avicii died Friday in Oman, a statement from his rep told Billboard. He was 28 years old. A cause of death was not immediately known, but the DJ previously suffered from pancreatitis.
- ^ Aswad, Jem (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “Avicii Dies at 28”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Avicii är död”. Dagens Nyheter (bằng tiếng Thụy Điển). ngày 20 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
- ^ VnExpress. “DJ Avicii qua đời ở tuổi 29”. vnexpress.net. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ Nyren, Erin (ngày 21 tháng 4 năm 2018). “Police Say 'No Criminal Suspicion' in Avicii's Death (Report)” (bằng tiếng Anh). Variety Magazine. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2018.
- ^ a b “DJ Avicii qua đời do tự tử, để lại thư tuyệt mệnh”. Báo điện tử Tiền Phong. 27 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ Trí, Dân. “Công bố nguyên nhân cái chết của DJ Avicii”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Avicii's Suicide Caused by Self-Inflicted Cuts from Glass”. TMZ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Aviciis familj i öppet brev: Han orkade inte längre” (bằng tiếng Thụy Điển). SVT Culture. ngày 26 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Avicii's family reveals 'he could not go on any longer' in new statement”. The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2018.
- ^ Pressarna, Stoppa (ngày 19 tháng 12 năm 2018). “Världsexklusivt: Här ligger Avicii begravd”. MSN (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Tim "Avicii" Bergling (1989-2018)”. Find a Grave. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Turismen ökar i länet – fler besöker Skogskyrkogården”. Mitt i Stockholm (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ Benson, Lindsay (21 tháng 4 năm 2018). “Avicii songs ring out from this Dutch town's bell tower as a tribute to the late Swedish artist”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ “To Pay A Tribute To DJ Avicii, One Republic Played 'Wake Me Up' At Their Maiden India Concert”. IndiaTimes (bằng tiếng Anh). 22 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ Chí Thiện (21 tháng 5 năm 2018). “7 khoảnh khắc đáng nhớ nhất tại lễ trao giải Billboard 2018”. Một Thế Giới. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2021.
- ^ VnExpress. “20.000 khán giả dự đêm nhạc EDM Nex Music Festival”. vnexpress.net. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ Bein, Kat (12 tháng 10 năm 2018). “Vicetone Releases Avicii-Inspired Single 'South Beach': Listen”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Relive Tiësto's Emotional Avicii Tribute Set In Full From EDC 2018 [VIDEO]”. ngày 21 tháng 5 năm 2018.
- ^ Savage, Mark (27 tháng 5 năm 2018). “Biggest Weekend: Rita Ora's Avicii tribute”. BBC News. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Rita Ora pays emotional tribute to Avicii at BBC's Biggest Weekend – NME”. NME. 27 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2018.
- ^ “WATCH: Rita Ora Pays Emotional Tribute To Avicii”. Capital.
- ^ “These were the most played tracks at Tomorrowland 2018”. DJMag.com. ngày 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2019.
- ^ Powell, Karlie (ngày 1 tháng 8 năm 2018). “The 10 Most Played Songs of Tomorrowland Revealed [LISTEN HERE]”. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Avicii Remembered by Axwell & Ingrosso, Hardwell and More at Tomorrowland 2018”. Billboard.com.
- ^ “Multiple Avicii tributes at Tomorrowland honour the late EDM star”. ngày 23 tháng 7 năm 2018.
- ^ Bein, Kat (7 tháng 10 năm 2019). “Avicii Is the Latest Wax Figure at Madame Tussauds New York City: Exclusive”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
- ^ May, Rebecca April (6 tháng 12 năm 2019). “Avicii Invector review – an immersive musical tribute”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Stars celebrate Avicii at emotional tribute concert”. BBC News (bằng tiếng Anh). 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
- ^ George, George (19 tháng 7 năm 2019). “Tomorrowland pay moving tribute to Avicii in mainstage design”. We Rave You. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021.
- ^ Ago, 1461 Days. “The Swedish Army perform Avicii medley”. kfm.co.za (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ MEAH, HANNAH (3 tháng 9 năm 2019). “TRIBUTE CONCERT TO BE HELD IN HONOUR OF AVICII IN STOCKHOLM”. Mixmag. Truy cập 21/01/2021. Đã định rõ hơn một tham số trong
|tác giả=
và|họ=
(trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ MESFIN FEKADU (19 tháng 5 năm 2021). “Sweden's Ericsson Globe gets a new name: AVICII ARENA”. ABC News. Truy cập 21/05/2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ Willman, Chris (19 tháng 5 năm 2021). “Stockholm's Avicii Arena Aims to Raise Awareness of Mental Health Issues”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
- ^ News, V. T. C. (8 tháng 9 năm 2021). “Google Doodle kỷ niệm sinh nhật thứ 32 của DJ Avicii - DJ nâng tầm nhạc điện tử”. Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2021.
- ^ “Avicii's Family Launches Mental Illness and Suicide-Prevention Foundation in His Memory”. Variety. 26 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Avicii's legacy is 'transforming mental health in the music industry'”. BBC. 28 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ Blistein, Jon (26 tháng 3 năm 2019). “Avicii's Family Launches Foundation to Address Mental Health, Suicide Prevention”. Rolling Stone. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ Kazi, Safeeya (27 tháng 3 năm 2019). “Avicii's family set up suicide prevention foundation in his honour”. Evening Standard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ karsoowuttt (20 tháng 4 năm 2018). “Martin Garrix, Avicii's Manager & Artists Around The World React To Avicii's Death”. Your EDM. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2019.
- ^ Marzovilla, Julia (20 tháng 4 năm 2018). “Avicii's Death Mourned by Calvin Harris, Marshmello, deadmau5 & More”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ Richards, Chris. “Was Avicii trying to bridge EDM and country? And did anyone dare walk across?”. The Washington Post. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2019.
- ^ Bain, Katie (21 tháng 11 năm 2019). “Songs That Defined the Decade: Avicii's 'Levels'”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2021.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (25 tháng 11 năm 2013). “American Music Awards 2013: Taylor Swift giành giải Nghệ sĩ của năm”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Staff, Billboard (24 tháng 11 năm 2014). “AMAs 2014: And the Winners Are …”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Warner, Denise (25 tháng 11 năm 2019). “Here Are All the Winners From the 2019 American Music Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Staff, Billboard (19 tháng 5 năm 2014). “Billboard Music Awards 2014: Full Winners List”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Staff, Billboard (18 tháng 5 năm 2015). “Billboard Music Awards 2015: See the Full Winners List”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Roxborough, Scott (28 tháng 3 năm 2014). “German Echo Music Awards: Avicii, Eminem, Depeche Mode Win Big”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Greenburg, Zack O'Malley. “Grammy Winners 2012: The Full List”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Staff, Billboard (11 tháng 2 năm 2013). “Grammys 2013: Winners List”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Staff, Billboard (2 tháng 5 năm 2014). “The 2014 iHeartRadio Music Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ “28th Annual International Dance Music Awards - Winter Music Conference 2013 - WMC 2013”. web.archive.org. 7 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ Gonzalez, Juan Carlos (6 tháng 4 năm 2020). “International Dance Music Awards Announces Winners”. EDMTunes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Teen Choice Awards 2014: Winners list in full from The Fault in our”. The Independent (bằng tiếng Anh). 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.